Cây sưa, khoai môn, cây óc chó, cây có củ, tên khoa học là Amorphophallus konjac, là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy. Loài này được K.Koch mô tả khoa học đầu tiên vào năm 1858.
Cây khoai tây: Là cây thân thảo, có củ lớn hình cầu lõm, đường kính tới 25 cm; Ra hoa trước, ra lá sau. Mỗi lá chia thành 3 nhánh, các nhánh chia thành nhiều đốt, phiến lá xẻ sâu dạng lông chim, các thùy cuối thuôn dài, nhọn ở đỉnh; Quả đậu xanh mỏng, dài 40-80 cm, nhẵn, màu xanh nâu, có đốm trắng. Các hoa có hình bướm lớn, bao ngoài màu xanh lục nhạt có đốm xanh đậm, mép màu tím đỏ, mặt trong màu đỏ. Trục của hoa dài gấp đôi mo. Quả mọng.
Những phần đã dùng
Củ – Rhizoma Amorphophalli
Nơi sống và tụ tập
khoai tây được trồng ở Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. Ở nước ta, các dân tộc ở một số vùng núi các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Bắc … đã trồng loại khoai này từ lâu đời.
Ở nhiều vùng quê còn trồng cây lấy củ ăn. Củ khoai môn có kích thước lớn, nếu thu hoạch sớm, khi chưa già ăn sẽ giòn nhưng ít bị ngứa; nếu để sang một nền văn hóa mới, chúng sẽ nhút nhát, không run rẩy, nhưng ngứa ngáy; Năm sau tôi ngứa quá tôi không thể ăn được. Nấm rơm khi được đào về sớm, chỉ cần gọt vỏ, nhúng vào nước vo gạo nửa ngày, sau đó đun sôi với chút muối khoảng 1 giờ là có thể ăn được.
Đối với những củ già và lớn cần xử lý bằng cách sử dụng vôi và tro để kiềm hóa. Chúng ta thường dùng loại củ này cắt đôi hoặc 1/4 thành từng miếng nhỏ, ngâm vào nước phèn chua qua đêm rồi nấu với vôi tôi trong 1 giờ sẽ hết ngứa. Nếu muốn để dành dùng sau, bạn cũng nên đợi miếng ngâm trong nước phèn chua qua đêm, để khô rồi ngâm vào nước nóng có pha vôi trong 1/2 ngày cho khô. Củ dùng làm thuốc cũng nên sơ chế, thái nhỏ, ngâm nước qua đêm, nhúng qua nước phèn chua qua đêm, phơi khô rồi nấu với Gừng (cứ 100 g gừng trên 1 kg củ) trong 3 giờ. hết ngứa.
Thành phần hóa học
Biết rằng trong 100g củ khô có 75,16g tinh bột, 12,5g protein, 0,98 lipit, 3,27 dẫn xuất không phải protein, 3,67 xenlulozơ, 4,42 hiđro. Phần trăm tinh bột cao gấp đôi khoai môn.
Hương vị và hiệu ứng
Vị cay, tính ấm, có độc, có tác dụng thông nước bọt, táo thấp, trừ co cứng, thông kinh lạc, khỏi đau, làm ấm tỳ vị, khỏi nôn mửa, tiêu hạch, tiêu sưng.
Sử dụng
Thường được trồng để lấy bột làm thức ăn, toàn cây và lá dùng cho lợn ăn, đậu xanh (bìm bìm) nấu canh ăn với dấm hoặc muối chua. Củ được dùng làm thuốc trị đờm tích tụ ở phổi gây hen suyễn, thống phong, bất tỉnh, ngừng nói, đau, đầy bụng, tức ngực, ăn không tiêu. Nó còn được dùng để chữa bệnh sốt rét, bào thai chết lưu. Liều dùng 4-12g. Dùng ngoài lấy củ bột trộn với giấm đắp lên trị mụn sưng tấy.
Công thức nấu ăn
Trị sốt rét cổ trướng, nước bọt nhiều đờm, ăn không tiêu, da bụng dày lên; Dùng phúc bồn tử 12 g, Trần bì, Bạch truật, Nam mộc hương, Ý dĩ (sao), Trúc diệp, Xạ can đều 10 g, sắc uống. Nó có thể được thành bột để uống 24 g mỗi ngày.
(BlogCayCanh.vn)