Công dụng, cách dùng Chu sa thần sa | Flowerfarm.vn

A. Thuộc tính

  • Chu sa thường ở dạng bột màu đỏ, Thần Sa thường ở dạng cục khối óng ánh, kích thước không đảm bảo, có màu đỏ sẫm hoặc đỏ tươi, chất nặng nhưng vụn, không mùi, vị nhạt. Khi xay bằng tay, tay không bắt đỏ là được.
  • Ngày nay Chusha và Thần Sa vẫn được nhập khẩu, nhưng chu sa và Thansa đều là những loại thuốc rất phổ biến.

B. Thành phần hóa học

  • Thành phần chính trong chu sa hay cây thần sa là thủy ngân sulfua tự nhiên. Thủy ngân tinh khiết (Hg) 86,2%, sunfua (S) 13,8%. Nó thường bị trộn với một số tạp chất khác như chất hữu cơ. Khi cho vào ống nghiệm nóng sẽ cho HgS màu đen, cuối cùng là SO2 dâng lên và thủy ngân dính vào thành ống. HgS + O, -> S02 + Hg
  • Cho đến năm 1963, người ta vẫn chưa biết rõ đâu là hoạt chất của chu sa hay Thần sa. Bởi vì thủy ngân sulfua nói chung không hòa tan trong nước, nó là dạng thường được sử dụng trong y học cổ truyền. Năm 1963, Hoàng Như Tô và Phạm Hải Tùng (Đại học Dược Hà Nội) đã phân lập bằng phương pháp sắc ký một thành phần chưa xác định có tác dụng dược lý giống cỏ cà ri. Cùng năm đó, Đàm Trung Bảo (Đại học Dược Hà Nội) đã chiết xuất ở dạng tinh khiết và xác định đó là selenua thủy ngân, selenua thủy ngân điều chế ra có tác dụng là cỏ cà ri. Năm 1964, Đàm Trung Bảo cũng lấy bụi chôn dưới đáy hồ chứa axit sunfuric tại siêu nhà máy điện Lâm Thao, Việt Nam và vùng đất xung quanh, chiết xuất selen với tỷ lệ 6 đến 9%, và biến nó thành selenua thủy ngân. . và selenua thủy ngân.Chuẩn bị theo cách này có tác dụng tương tự như selenua thủy ngân làm từ bột talc.
  • Tỷ lệ selenua thủy ngân trong chu sa từ 2,5 đến 3%, trong khi trong chu sa chỉ chiếm rất ít, khoảng 2%. Nếu chỉ tính riêng selen thì ở Thần Sa. Ở chu sa tỷ lệ rất thấp, chỉ có dấu vết.

C. Tác dụng dược lý

  • Năm 1962, Ngô Ứng Long (Trường Sĩ quan Quân y Việt Nam) làm thí nghiệm thấy dịch chiết quế quế tuy không có dấu vết thủy ngân nhưng lại có tác dụng tương tự như chu sa.
  • Năm 1964, Hoàng Tích Huyền (Bộ môn Dược lý, Đại học Y Hà Nội) đã thử nghiệm các muối selenua natri, kali, muối selen, và muối selenua thủy ngân do Đàm Trung Bảo tổng hợp từ selen trong cỏ khô. Từ những bụi bẩn xung quanh nhà máy superlan Lâm Thao, đã đưa ra kết luận sau:

1. Các muối selenua natri và kali, các muối selen và selen có độc tính cao và không được dùng làm thuốc.

Muối HgSe ở dạng keo được tìm thấy trong chu sa, chu sa hoặc dạng tổng hợp với rất ít độc tính và có các tính chất sau:

– An thần rất mạnh, chống co giật mạnh hơn các loại thuốc an thần thường dùng như bromua, v.v. Tác dụng lên vỏ não, không làm thay đổi nhịp tim và không ngăn nôn do apomokfin.
– Kéo dài thời gian ngủ do vi khuẩn 2 đến 3 lần và kéo dài thời gian gây mê do pentotal cũng từ 2 đến 3 lần. Theo các tạp chí nước ngoài, một số thành phần selen được sử dụng với tác dụng tương tự như chu sa.
Một số hợp chất selen hữu cơ (MB, Ấn Độ) được dùng làm thuốc an thần.
– Các hợp chất selen đã được các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ thử nghiệm là có tác dụng diệt nấm và điều trị một loạt bệnh ngoài da. Ba Lan và Nhật Bản sử dụng selenosemicabazone để điều trị bệnh lao và vi khuẩn.
Hợp chất selemekaptopurina được sử dụng để chống lại sự phát triển của tế bào.

  • Năm 1964, Hoa Kỳ sử dụng 5,5% sản lượng selen làm thuốc, tương đương khoảng 30 tấn.
  • Qua thực nghiệm và hàng loạt tài liệu nước ngoài, chúng ta thấy rằng kinh nghiệm của một số người đối với công dụng của cây mã đề, chu sa đã được chứng minh và thành phần hoạt chất chủ yếu là do muối selen, một tạp chất có trong một tỷ người. Tỷ lệ rất thấp ở chu sa, thần sa. Ở tỷ lệ cao nhất của Thần Sa, người ta cũng cho rằng Thần Sa tốt hơn Chu Sa, dù trước đó không rõ lý do.

D. Sử dụng và liều lượng

  • Hiện nay y học phương Tây hầu như không sử dụng thủy ngân sulfua làm thuốc chữa bệnh. Trước đây được sử dụng để điều trị bệnh giang mai, nhưng thường chỉ ở dạng thuốc mỡ 10%. ít dùng để uống. Ngược lại, đông y coi chu sa, thần sa là vị thuốc thông thường có tác dụng an thần, trấn kinh, chữa chứng hoảng sợ, mất ngủ, ngủ hay lơ mơ, rụt rè hoảng sợ, trẻ hay quấy khóc về đêm. Nó cũng được sử dụng như một lớp sơn tĩnh điện của viên nén chống nấm mốc.
  • Tính chất của cây mã đề được sách cổ ghi lại như sau: Vị ngọt, hơi lạnh, vào kinh tâm, có tác dụng trấn tĩnh tâm hồn, giản kinh, khai sáng mắt, giải độc, chữa các chứng đau nhức. co giật) và bệnh giang mai mới. Được dùng trong tất cả các bệnh của ngũ tạng, làm sạch huyết quản, giải trừ phiền muộn, ích khí, bổ khí trong bụng, trị ghẻ lở. Người không thực nhiệt không dùng được.
  • Nó thường được sử dụng với liều lượng 0,04 đến 1 g mỗi ngày dưới dạng bột hoặc thuốc viên hoặc hấp với tim lợn cho ăn. Sử dụng ngoài trời tùy theo nơi phun thuốc lớn hay nhỏ. Trong sách cổ cho rằng nên dùng chu sa và thần sa vừa đủ sống, tuyệt đối không được dùng lửa có thể gây chết người (vì nhiệt chuyển hóa thành muối thủy ngân dễ hòa tan). Không sử dụng trong một thời gian dài và sử dụng quá nhiều có thể khiến con người trở nên ngu ngốc.
  • Cách bào chế như sau: Xay thần sa hoặc chu sa cho vào cối đá hoặc nồi sứ, thêm ít mưa hoặc nước cất, dùng đá châm hút hết mùn sắt rồi cho nước vào trộn đều, đổ. nước sạch hoặc tinh khiết, phía trên có màng lọc, thêm nước lần nữa vào trộn đều, khi nước trong thì dừng (phong thủy phi). Phần thức ăn thừa trong niêu được đậy kín (dùng giấy bạc bịt miệng lại) rồi đem phơi nắng đến khi khô thì sử dụng.

Ghi chú:

Trên thị trường đôi khi có bần nhân tạo (Vermilion), người ta cho không ngon bằng bần tự nhiên. Có lẽ vì không có tạp chất nào có tác dụng là muối selen.

Công thức chứa thần sầu riêng được con người sử dụng

  • Giải độc đậu cô ve khi mới mọc hoặc mới mọc: Lấy 1 g (3 phần) hòa với mật ong uống.
  • Chữa tinh trùng: Chu sa (phong thủy phi) cho vào tim lợn, sau đó chỉ lòng lợn, buộc chín rồi ăn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now