Công dụng, cách dùng Riềng rừng | Flowerfarm.vn

1. Mô tả

  • Cây thảo, cao 60-80 cm, có khi tới 2 m. Thân rễ hình trụ, mọc ngang, màu hồng nhạt.
  • Lá mọc so le thành hai dãy, có sọc – hình mác, dài 17 cm, rộng 3 cm, gốc thuôn dài đến màu be có sẹo, phiến đầy đặn, tròn hoặc hơi nhọn, dài 4-6 mm, nhẵn cả hai mặt, nhẵn, bóng trên. mặt trên, mặt dưới nhạt.
  • Hoa mọc ở đầu ngọn thành hình hoảng, dài khoảng 10 cm, chia thành 15 – 25 nhánh, thân ngắn, có lông mềm; lá bắc rất nhỏ, hoa màu trắng hay đỏ cam, cao 1 cm; Hi hình chuông ngắn, có răng mờ; tràng hoa ống ngắn, cánh hoa hình bầu dục, khum, nhẵn; Nhị có nhị mảnh, bao phấn hình khuyên, nhị hoa hình mác, mỗi cánh quấn hình cầu chia 3 thuỷ; bầu nhẵn.
  • Hạt, hình cầu, đường kính 8 mm, khi khô màu nâu đỏ, đóng ở bao hoa, hạt 3 – 5, màu vàng nâu 3 mặt.
  • Mùa ra hoa: tháng 5 – 7; Mùa hoa quả: tháng 9 – 12.

2. Phân bố, sinh thái

dành củ riềng Roxb., Trên thế giới có khoảng 230 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và chí tuyến Bắc bán cầu; Chỉ có một số loài ở Úc và các đảo của Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, chi này đã công nhận được 27 loài, trong đó có một số loài mới đối với khoa học và ở Việt Nam (Nguyễn Quốc Bình, 2005 trong: Danh lục các loài thực vật Việt Nam, T. III). Loài riềng trên chỉ có ở các tỉnh phía Nam như An Giang, Đồng Nai và một số nơi khác ở phía Nam. Trên thế giới, cây này phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin.

Riềng rừng là một loại cây nhiệt đới tương đối điển hình. Cây ưa ẩm, chịu bóng, nhất là khi còn nhỏ, thường mọc ở các cây bụi cao hoặc các loài ven bờ sông suối, từ trong rừng đến cửa rừng.

Những phần đã dùng:

Thân rễ, thu hái quanh năm, rửa sạch, thái mỏng, phơi nắng hoặc sấy khô.

3. Thành phần hóa học

Chưa có tài liệu nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài riềng. Theo loài Phạm Hoàng Hộ (2006). A. oxyphylla Mig. Loại mọc ở nước ta có chứa chất 1- (4 ′ – hydroxyl – 3 methoxyphenyl) – 7 phenyl – 3 – heptanone cay gấp 125 lần zingiberon trong riềng thường. Ngoài ra, nó còn chứa yakuchinon – 13 có tác dụng kích thích tim.

Trịnh Đình Chính và cộng sự, (VAST – kỷ yếu, 2008, tr.240) phân lập từ tiếng riềng ngắn mọc ở Quảng Trị (A. breviligulata Tinh dầu Gapnep.) Có thành phần chính là E – E – farnesol (65%) (trong hạt). Tinh dầu trong củ chủ yếu là β-penene, borneol, thân và lá chứa α và β-pinene. Trong quá trình chiết xuất thân rễ bằng metanol và n-hexan. Chiết xuất n-hexan chứa α-humule (1,95%), axit hexadecanoic (18,21%) và β-sitosterol.

4. Tác dụng dược lý

Tác dụng giảm đau và chống viêm:

Riềng rừng có tác dụng giảm đau và chống viêm, điều này đã được chứng minh trong kinh nghiệm của con người rằng nó vẫn được sử dụng để điều trị bệnh thấp khớp và đau (Sulaiman và cộng sự, 2009).

5. Hương vị, chức năng

Thân rễ (và lá) riềng có vị cay, tính nóng, mùi thơm; có chức năng chữa tỳ vị, giúp tiêu thũng, giảm đau; Nó cũng kích thích và chữa ho.

6. Công dụng

Thân rễ riềng dại cũng được dùng như các loại riềng khác, có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm, chữa đầy bụng, đau bụng, đau bụng, sa dạ con, ngày 2 – 5 g rễ phơi khô rồi giã nhỏ. . Nó có thể được nghiền thành bột mịn và uống với nước 1-2 g mỗi ngày. Cũng được sử dụng như một loại gia vị và men rượu.

  • Ở Malaixia, lá tươi dùng riêng hoặc phối hợp với thân rễ, rửa sạch, giã nát, đắp ấm, đắp thành miếng đắp tụ máu, chống phong thấp, đau nhức xương. Lá giã nát làm bánh đắp vào gan bàn chân sau khi sinh. [Van Valkenburg et al., 2001, vol.2: 571].
  • Ở Indonesia, thân rễ riềng được dùng để kích thích, làm ra mồ hôi, chữa viêm phế quản, vàng da, nhức đầu, chóng mặt, phối hợp với một số vị thuốc khác làm săn chắc, kích thích ăn uống cho trẻ sơ sinh. Ngoài ra để làm gia vị, thực phẩm [Medicinal her in Indonesia, 1995: 267].

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now