Công dụng, cách dùng Sơn dương | Flowerfarm.vn

1. Mô tả

  • Thân hình nhỏ gọn, cao khoảng 50 cm, trọng lượng 80 – 130 kg. Đầu to, hơi dài, mõm nhọn, tai giống lừa, cổ to, chân ngắn, sừng phân nhánh, gờ cong, màu đen, ở gốc sừng có tuyến bẩn, phủ muối ngắn từ trán đến vai. Từ gốc tai đến hết mõm và quanh mắt, mũi có những sợi lông dài màu vàng nhạt, trên trán có lông trắng; đuôi rất ngắn.
  • Bộ lông hoang dã dày, dài và cứng, màu xám đen hoặc xám xám.

2. Phân bố, sinh thái

  • Dê rừng phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Nêpan, Mianma, Lào, Malaixia, Inđônêxia, ở Việt Nam, Dê rừng có ở Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa. Kon Tum, Gia Lai…
  • Con lợn rừng sống trong rừng đá, thường ở lưng chừng núi, có khi ở tận đỉnh núi. Môi trường sống của nó là các hang động nhỏ. Sống thành bầy 3-4 con, có khi hàng chục con; Động vật già thường sống một mình, tìm kiếm thức ăn vào ban ngày, thường không xa nơi chúng sống. Thức ăn chủ yếu là cỏ, lá, chồi và quả, rêu.
  • Dê rừng đẻ vào tháng 3, tháng 4, mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa một con.

3. Các bộ phận được sử dụng và mùi vị, chức năng

Cây xương bồ (Dương xương bồ) có vị ngọt, cay, tính ấm, có tác dụng mạnh gân xương, trừ thấp, giảm đau. Thịt có vị ngọt, tính nhiệt, không độc, có tác dụng bổ dương, ích khí, bổ can can uất.

Sừng (linh dương) có vị mặn, tính lạnh, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, làm dịu thần kinh, chỉ huyết.

Huyết dụ vị mặn, tính cá, tính bình, có tác dụng tiêu độc, tán ứ.

4. Công dụng

Theo kinh nghiệm dân gian, khi bắt dê rừng, người ta mổ thịt, lấy tiết, lấy xương, sừng, mật và có khi cả dương vật để chữa bệnh.

Huyết dê: Uống ngay khi còn nóng khi cắt tiết đề phòng ngộ độc do ăn phải nấm độc, thức ăn có độc. Hoặc trộn dịch tiết với một ít rượu, uống để trị giọt có máu tụ, sưng đau.

Sừng dại xay, phơi khô, giã nát, rây mịn, mỗi lần 2 – 5 g, ngày 2 lần. Chữa sốt cao, sơn lam chướng khí. Chữa đau đầu dữ dội, hôn mê, nôn mửa, lấy sừng dại (1 cái) phơi khô, nghiền thành bột rồi sắc với xuyên khung (10 g), bạch chỉ (5 g), uống trong ngày. Sừng dê rừng đốt thành than, tán thành bột, mỗi lần uống 12 g rượu để an thai (Nam dược thần hiệu).

Cây xương bồ thường được chế biến thành cao dùng chữa thiếu máu, đau lưng, tê thấp, đau nhức gân xương, làm lành vết thương. Ngày uống 5-10 g, thái mỏng, sắc với nước ấm hoặc rượu. Cao sơn dương đôi khi được nấu với xương dê trong nước và đặc biệt là cao hổ cốt để nâng cao tính chất bổ và làm tăng giá trị chữa bệnh của dịch chiết từ xương hổ.

Thịt dê rừng được đồng bào vùng cao coi trọng về giá trị y học. Họ tin rằng những người luôn ăn thịt dê sẽ có một cơ thể cường tráng, thể lực dồi dào, làm việc và săn mồi không biết mệt. Người bị ngoại cảm, sốt cao không nên ăn thịt dê rừng. Ngoài ra, mật dại còn được dùng làm mật gấu, mật trăn, chữa đau đầu, hen suyễn, bệnh ngoài da. Sừng tắc kè hoa đôi khi được thay thế hoặc sừng tê giác được rèn để điều trị sốt cao và co giật.

5. Thuốc hoang dã

1. Chữa sốt cao, co giật.: Sừng linh dương (30g), móc câu (10g) băm nhuyễn, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày.

2. Chữa chứng thiếu máu (dùng cho người mới ốm dậy, phụ nữ sau sinh thiếu máu, trẻ em suy dinh dưỡng, ra nhiều mồ hôi, tay chân lạnh.: Thịt thú rừng (200 g) cắt lát mỏng; Hoàng kỳ, huyền sâm và đương quy (mỗi thứ 25 g) nấu với nước trên lửa nhỏ cho đến khi chín mềm. Ăn cả cơm và nước (tài liệu nước ngoài).

Ghi chú:Hiện nay, số lượng động vật hoang dã trong tự nhiên không còn lớn và đang trở thành đối tượng nguy cấp, quý hiếm do nạn săn bắt bừa bãi. Vì vậy, dê rừng được đưa vào Sách Đỏ Quốc gia để được bảo vệ hoàn toàn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now