Công dụng, cách dùng Thổ nhân sâm | Flowerfarm.vn

  • Cây sống, hàng năm hoặc lâu năm, cao 30-50 cm. Cuống hình trụ nhẵn, phân nhánh ở gốc.
  • Lá mọc so le, dày, gần như không cuống hoặc có cuống rất ngắn, hình bầu dục hoặc hình trứng, gốc thuôn dài, đầu nhọn hoặc hơi nhọn, gân trong mờ, nhẵn cả hai mặt, gần như cùng màu.
  • Hoa chuỳ là hình chùy kép mọc ở đầu cành, gồm nhiều hoa nhỏ màu hồng; chào có 2 răng nhỏ; Tràng hoa có 5 góc; nhiều nhị hoa; bầu hình cầu.
  • Quả nhỏ, tròn, khi chín có màu nâu đỏ; Hạt dẹt, màu đen tuyền.
  • Mùa hoa quả: tháng 5-11

2. Phân bố, sinh thái

  • Chi Talinum Adans hiện có 2 loài là sâm đất và một loài khác là T. tam thất (Jacq.) Willd. được trồng để lấy lá và ngọn non như rau. Cả hai đều có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, sau đó lan rộng ra các vùng khác trên thế giới (MA Rifai, 1994 in J. s. Siemonsma và Kasem Piluek, PROSEA N ° 8 Vegetable, 268 – 269).
  • Ở Việt Nam, nhân sâm là một loại cây tự nhiên và là một cây thuốc. Cây mọc tự nhiên ở các vùng núi đá vôi như huyện Yên Minh, Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; Chiêm Hóa – Tuyên Quang; Quảng Hòa, Hà Quảng, Trà Lĩnh – Cao Bằng; Tràng Định, Bắc Sơn – Lạng Sơn; Thủy Nguyên – Hải Phòng; Sơn này – Nghệ An… Độ cao phân bố từ 400 đến 1300 m. Cây sâm đất là loại cây ưa ẩm, ưa sáng, thường gặp ở các hốc đá mùn, khe đá nơi có nắng, phát triển mạnh vào mùa mưa ẩm. Sau mùa hoa quả, phần trên mặt đất có thể bị dập tắt vào mùa đông. Khi quả sâm già tự mở ra, hạt phát tán ra xung quanh nên trong tự nhiên, người ta thường thấy cây mọc thành từng đàn, gồm nhiều thế hệ khác nhau.
  • Trong những năm 1960-1980, ở các tỉnh phía Bắc, nhân sâm được thu mua từ nguồn tự nhiên và nuôi trồng. Nguồn sâm đất mọc tự nhiên ngày càng khan hiếm do nạn chặt phá rừng.

3. Làm thế nào để phát triển

  • Cây sâm đất mọc chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, lấy lá làm rau và củ làm thuốc. Cây có thể mọc ở vùng lạnh như Lào Cai, Hà Giang … và vùng nóng như vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
  • Sâm đất được nhân giống bằng hạt. Vào mùa xuân, hạt giống được gieo trực tiếp tại ruộng sản xuất, không qua vườn ươm.
  • Cây không kỵ đất, đất nào cũng trồng được trừ những nơi ngập úng. Cày xới đất theo luống cao 20 – 25 cm, bón lót 10 – 15 tấn / ha phân hữu cơ, cắt hàng cách nhau 20 cm. Hạt gieo thành hàng, sau đó tỉa bớt để lại khoảng cách cây 10-15 cm cho cây.
  • Thường xuyên làm cỏ, xới xáo, vun gốc, bón thúc bằng nước, phân hữu cơ, dung dịch hoặc đạm loãng.

4. Các bộ phận đã qua sử dụng

Rễ, thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô dưới nắng. Khi dùng, cắt mỏng, nhúng vào nước gừng hoặc nước có đường, nấu chín. Sử dụng cả lá.

5. Thành phần hóa học

  • Rễ sâm đất chứa 1 – hexacosanol, 1 – octacosanol, 1 – triacontanol, campestrol, stigmasterol, β-sitosterol, β – sitosteril – β – D – glucoside (Komatsu Manki và cộng sự, 1982).

6. Hương vị, chức năng

Sâm đất có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ khí, nhuận tràng, sinh tân, kiện tỳ, kiện tỳ.

7. Công dụng

  • Trong y học cổ truyền, nhân sâm đất được dùng làm thuốc bổ, chữa suy nhược cơ thể, ra mồ hôi trộm, hoa mắt, ù tai, chóng mặt, tiêu chảy ở trẻ em và phụ nữ vùng hạ vị. Nó cũng được sử dụng để điều trị các bệnh phổi, ho, sốt.
  • Liều dùng: 20 – 30 g / ngày, dạng thuốc sắc. Đôi khi người ta dùng củ hoặc lá cây sâm đất nấu với thịt để ăn. Ở Indonesia, nhân sâm đất được sử dụng như một loại thuốc kích thích tình dục.

8. Sâm đất thuốc

  • Chữa các bệnh về phổi, ho, nhiệt miệng, đổ mồ hôi trộm ban đêm: Củ nhân sâm thái nhỏ 9 -15 g, đường kính 60 g. sắc lấy nước uống, hoặc xay thành bột với mật ong đã chế biến thành nước uống.
  • Chữa trẻ em tỳ vị hư hàn, tiêu chảy: Nhân sâm thái nhỏ 150 gr, gạo tẻ 60 gr. Hai vị sao vàng xay thành bột mịn cùng với mật ong đã chế biến. Mỗi lần uống 6 g, ngày 2 lần.
  • Điều trị đa niệu: Nhân sâm 60 g, rễ kim châm 60 g, sắc lấy nước, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
  • Thuốc bổ: Nhân sâm 20 g, rễ vú bò 20 g, hà thủ ô 20 g, củ kỳ nam 20 g, củ gai 20 g, hoài sơn 16 g, rễ sài hồ 12 g, cam thảo 8 g, nhân trần 8 g, 3 lát. của gừng. Ức bò cắt gốc ngâm nước đường. Rễ hà thủ ô (đỏ hoặc trắng) ngâm nước vo gạo qua đêm, rửa sạch, ngâm nước đậu đen (100 g đậu đen nấu 5 lít nước còn 2 lít), đun đến khi nhừ. mềm rồi đem phơi khô, thái nhỏ, dán keo. Tất cả sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày. Quá trình điều trị kéo dài 5-7 ngày.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now