Cây Ngô (cây bắp) | Flowerfarm.vn


Tên tiếng Anh / Tên khoa học: Ngô, ngô


Danh pháp gồm hai phần: Zea mays L. ssp. ngọn

Ngô là một loại cây lương thực được thuần hóa ở Trung Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp Châu Mỹ. Ngô (ngô) lan rộng ra phần còn lại của thế giới sau khi châu Âu tiếp xúc với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16.

Bắp (ngô) du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc.

Ngô (bắp) là cây nông nghiệp có diện tích thu hoạch lớn thứ hai ở Việt Nam sau cây lúa.


Diện tích trồng ngô ở Việt Nam (ước tính năm 2016): 1 300 000 ha

+ Năng suất bình quân: 4,6 tấn / ha

+ Tổng sản lượng: 5.980.000 tấn


Mô tả sơ bộ về ngô (ngô, ngô, bữa sáng)

Thân cây ngô (cây ngô đồng) tương tự như thân của các loài tre và nút thắt (nút hoặc mắt) có thể được đặt ở khoảng cách khoảng 20-30 cm (8-12 inch). Ngô có kiểu sinh trưởng rất khác; lá rộng hình mũi mác, dài 50–100 cm và rộng 5–10 cm (2–4 ft trên 2–4 inch); Thân mọc thẳng, thường dài 2–3 m (7–10 ft), có nhiều nút, với các lá tỏa ra từ mỗi nút có cuộn nhẵn. Dưới các lá này và gần cuống là các bắp. Khi còn nhỏ, chúng phát triển khoảng 3 cm mỗi ngày. Từ các nút ở cuối phát sinh một số rễ.


Cây ngô, cánh đồng ngô

Cây ngô (cây ngô) trồng trên ruộng

Cây bông (cobs) là cụm hoa cái có hoa hình bông, được bao bọc trong nhiều lớp lá và được lá quấn chặt đến mức không để lộ ra ngoài cho đến khi có lông màu nâu. từ vòng lá đến hết lõi lá. Nhụy ngô là những đầu nhụy thuôn dài trông giống như một lọn tóc, lúc đầu có màu xanh lục sau đó chuyển dần sang màu đỏ hồng hoặc màu hạt dẻ.


Cây ngô, lõi ngô, tơ ngô


Lõi ngô và hoa đực ở ngô (cờ ngô)

Ở đầu cuống là một nhóm hoa đuôi sóc chứa hoa đực, được gọi là hoa ngô. Bất kỳ tơ ngô nào cũng có thể được thụ phấn để tạo ra một hạt ngô duy nhất trên lõi ngô. Có thể sử dụng lõi ngô non làm rau với tất cả lõi và râu, nhưng khi ngô già đi (thường là vài tháng sau khi ra hoa) lõi ngô trở nên cứng và râu khô đi, khiến chúng không thể ăn được.


Lõi ngô, hạt ngô, hướng dẫn thực vật

Ngô và hạt ngô (ngô, bắp)

Hạt ngô là dạng cơm với cây họ đậu có vỏ hạt chảy ra, là một loại quả phổ biến trong họ Poaceae. Nó giống một loại trái cây phức tạp về cấu trúc, ngoại trừ việc các hạt đậu riêng lẻ (hạt ngô) không bao giờ kết thành một khối duy nhất. Các hạt ngô có kích thước bằng hạt đậu và được dán thành các hàng tương đối đồng đều xung quanh lõi ngô màu trắng để tạo ra lõi ngô. Mỗi lõi cao khoảng 10 – 25 cm (4 – 10 inch), chứa khoảng 200 – 400 hạt. Các hạt có các màu như đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng. Khi nghiền thành bột, ngô tạo ra nhiều bột và ít cám hơn lúa mì. Tuy nhiên, nó không chứa gluten giống như lúa mì và do đó làm cho bánh nướng ít bị phồng hơn.


Thời gian sinh trưởng của cây ngô (ngô, bắp, ngô)

Thời gian sinh trưởng của cây ngô (cây ngô) dài ngắn tùy thuộc vào giống và điều kiện môi trường. TGST trung bình từ khi trồng đến khi trưởng thành là 90 – 160 ngày.

Quá trình phát triển của cây ngô được chia thành hai giai đoạn:

Giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng: Từ khi trồng đến khi xuất hiện nhị hoa

+ Giai đoạn sinh trưởng: Bắt đầu bằng việc bón phân cho hoa cái cho đến khi hạt trưởng thành hoàn toàn.

Có nhiều ý kiến ​​khác nhau về thời gian sinh trưởng, phát triển của cây ngô nhưng có thể chia thành các thời kỳ sau: thời kỳ nảy mầm, thời kỳ có 3 – 6 lá, thời kỳ 8 – 10 lá, thời kỳ xoáy nõn. , thời kỳ ra hoa. và thời gian nướng.


Sản phẩm thu được từ cây ngô / giá trị dinh dưỡng của hạt ngô

Ngô là một loại hạt ngũ cốc giàu chất xơ, vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hóa. Ngô thường có màu vàng, một số giống có các màu khác như đỏ, cam, tím, xanh, trắng và đen.

Giống như tất cả các loại ngũ cốc, ngô bao gồm chủ yếu là tinh bột và đường.

+ Tinh bột: Là thành phần chính có trong ngô, chiếm 28 – 80% trọng lượng khô.

+ Đường: Ngô cũng chứa một lượng nhỏ đường (1-3%).

Ngô đường chứa hàm lượng tinh bột cực thấp (28%) và hàm lượng đường cao (18%), phần lớn trong số đó là đường sucrose.

+ Chất xơ: Hàm lượng chất xơ của các loại ngô khác nhau nhưng nhìn chung chất xơ chiếm khoảng 9-15%. Chất xơ chính trong ngô là chất xơ không hòa tan, như hemicellulose, cellulose và lignin.

Protein: Ngô là một nguồn giàu protein. Tùy theo giống ngô (ngô), nhưng phần lớn hàm lượng protein trong ngô (ngô) khoảng 10 – 15%. Protein phong phú nhất trong ngô được gọi là zein, chiếm 44-79% tổng lượng protein. Nói chung, chất lượng của protein zein kém vì nó thiếu một số axit amin thiết yếu, chủ yếu là lysine và tryptophan.

+ Dầu ngô: Hàm lượng chất béo trong ngô rất thấp. Tuy nhiên, ngô non là nguyên liệu dồi dào, rất giàu chất béo và được dùng để làm dầu ngô (ngô), thường được dùng để nấu ăn. Dầu ngô cũng chứa một lượng đáng kể vitamin E, ubiquinone (Q10) và phytosterol, có hiệu quả trong việc giảm mức cholesterol.

+ Vitamin và khoáng chất: Mangan, Phốt pho, Magie, Kẽm, Đồng … Axit Pantothenic, Folate, Vitamin B6, Niacin, Kali …

+ Các hợp chất thảo dược khác: Ferulic Acid, Anthocyanins, Zeaxanthin, Lutein, Phytic Acid …


Sản phẩm chính từ hạt ngô

+ Chế biến thức ăn: Dùng làm thức ăn cho người, dùng để chăn nuôi gia cầm, gia súc.

+ Dùng trong công nghiệp: chuyển sang nhựa hoặc vải, nhiên liệu sinh học, cồn, cồn …

+ Dùng trong chế biến món ăn: súp ngô, cháo ngô …

+ Làm bánh snack, kẹo …: Bánh ngô, bắp rang bơ, bắp rang bơ …


Phụ phẩm từ ngô (ngô, ngô, ngô)

Cob có thể được xuyên thủng và cũng được sử dụng như một đường ống không khói, được sản xuất lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1869. Cob cũng có thể được sử dụng như một nguồn nhiên liệu.

Nhuộm từ hoa ngô đồng (râu ngô) cũng được bán trên thị trường như một loại thảo dược lợi tiểu.

+ Phụ phẩm từ ngô (cây ngô) sau khi chiết xuất thành bột có chứa polyphenol, diệp lục để làm thức uống …

+ Thân cây ngô (cây ngô) ủ chua làm thức ăn cho gia súc nhai lại: trâu, bò, dê, cừu …


Hướng dẫn trồng, ruộng ngô đẹp ở Yên Bái

Cánh đồng ngô thôn Gốc Quán, xã Đồng Cương, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái


Admin tổng hợp lại bởi: Wikipedia, Hội đồng lúa mì tại Việt Nam

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now