Cây trám (trám trắng, trám đen) | Cây cảnh – Hoa cảnh – Bonsai – Hòn non bộ – Sân vườn tiểu cảnh | Flowerfarm.vn

Cây Trám, thuộc chi Trám, ở Việt Nam có hai loại trám trắng và trám đen. Cây có nhiều công dụng như lấy quả để ăn, cây lấy gỗ, nhựa, tinh dầu. Ngoài ra, quả trám còn có tác dụng chữa bệnh trong y học dân gian.

Cây cần sa là cây bản địa lớn cao 20-30 m, đường kính ngang ngực 50-70 cm, thân tròn thẳng, tán lá rộng, xanh tốt quanh năm.

Lá cấu tạo hình lông chim đơn, mọc đối, dài 35 – 40 cm, có 7 – 11 lá chét; lá chét hình bầu dục, mặt trên màu lục nhạt, bóng, mặt dưới có lông bạc; các lá gần gốc có đỉnh ngắn, các lá phía trên có đỉnh thuôn dài; gân lá hơi nổi rõ; Lá hình dùi, phủ một lớp lông mềm màu nâu bạc.

Cây cần sa có đực và cái.

Cây nhồi bông Ra hoa tháng 6-7, đậu quả: tháng 8-10.

Hoa mọc đầu từng nhóm kép, dài 8 – 10 cm; lá bắc vảy. Hoa đơn tính trên cùng một gốc, ít mọc, thường mọc thành chùm 2-3 cái; Lông tro 3 răng; tràng hoa hình bầu dục, có 3 cánh hoa dài hơn lá đài một chút, mặt ngoài phủ một lớp lông ngắn; nhị 6 nhị ngắn; bầu hình trứng, có lông nâu.

Quả óc chó hình bầu dục, nhọn hai đầu, dài 2,5 – 3,5 cm, khi chín có màu vàng nhạt; thớ thô cứng với gỗ.

Cành mới màu nâu nhạt, có lông mềm. Vỏ mỏng màu nâu xám. nứt dọc nhẹ, thịt quả màu hồng, mùi vị đặc trưng và khi cắt ra có nhựa đặc chảy ra.

Gỗ già mềm, nhẹ, thớ mịn, dễ bóc và cắt thành lát, thường được dùng làm nhà, làm nguyên liệu ván ép, bột giấy và củi.

Cây cần sa
Cây cần sa

Trám trắng và trám đen

Hai loại Canarium Album (Canarium Album)Quả trám (Canarium tramdeum) là hai loại cây Nam Á, có một số điểm đặc biệt khác với các loại còn lại về chi tiết: lá, hoa và quả. Quả của hai cây này rất giống với hai cây ô liu (Olea europaea) của Nam Âu. Từ tiếng Anh ám chỉ sự so sánh này: trám trắng được gọi là ô liu trắng và trám đen của Trung Quốc, ô liu đen của Trung Quốc.

Trám trắng
Trám trắng

Trám trắng
Trám trắng

Trám trắng
Quả trám trắng chuyển sang màu vàng khi chín.

Phần đệm màu trắng (Album Canarium Raeusch)còn có tên gọi khác là cây Bùi, thanh quả, giác lộ, cơm ký, bình phong.

Quả trám (Canarium tramdeum)Còn gọi là sâm trám: trám đen thường được thu hái sớm hơn trám trắng vài ngày, mặc dù chúng vẫn cùng vào các tháng mùa thu (tháng 9-10).

Trám đen
Trám đen

Trám đen
Trám đen

Trám đen
Trám đen

Quả trám đen khi chín có màu đen và chắc. Trám trắng và trám có hai loại, khi chín quả chuyển sang màu vàng.

Nhựa trám trắng được sử dụng để chưng cất tinh dầu, chế biến nhựa thông dùng trong nước hoa, xà phòng, dầu bóng tạo hương, trộn mực và mực in.

Quả trám được dùng làm thực phẩm, chế biến ô mai, thuốc ho, giải rượu, giải độc.

Hiện nay, cây keo trắng đã được chọn làm cây trồng chính trong các dự án mở rộng rừng, dự án lâm nghiệp trang trại và các chương trình trồng rừng khác để cung cấp gỗ, quả và nhựa cây.

Trầm hương phân bố tự nhiên ở Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Bờ Biển Ngà … ở Việt Nam Trầm trắng mọc ở rừng tự nhiên các tỉnh phía Bắc, khu IV cũ và Tây Nguyên ở độ cao 100-800 m so với mực nước biển. detit. .

Cây cần sa được trồng rộng rãi ở miền bắc và cả ở tây nguyên trung bộ. Xôi đen là một đặc sản được đánh giá cao của các tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ. Trồng trám cho hiệu quả kinh tế cao, cải dầu từ 7 – 10 năm tuổi cho 2 – 3 tạ quả / năm.

Trâm Chi

Chi Trâm (tên khoa học: Canarium) là một chi thực vật thân gỗ trong họ Burseraceae hay Balsameaceae, có nguồn gốc từ châu Phi nhiệt đới và Nam Á, từ miền nam Nigeria ở phía đông đến Madagascar, Mauritius, Ấn Độ, miền nam Trung Quốc và Philippines. Chúng là những cây gỗ lớn thường xanh cao tới 40–50 m, lá mọc đối.

Sử dụng

Một số loài có quả ăn được, được gọi là quả hạch. C. indicum và C. ovatum là một trong những loài thực vật mang hạt quan trọng nhất ở đông Indonesia và tây nam Thái Bình Dương, cũng như ở Philippines. Các loài khác, quan trọng nhất là C. luzonicum, tạo ra một loại nhựa gọi là nhựa dầu.

Quả trám là một loại quả trám ngon và bổ dưỡng, có vị giống như quả lê. Thịt của nó có thể ăn được sau khi ngâm trong nước ấm. Trong quả có chứa protein, lipid và cacbohydrat nên nó trở thành một loại quả có giá trị. Cô được đưa từ Borneo đến Queensland, Australia.

Tên

Cái tên Trám Trám có nguồn gốc từ hệ Nam Á, người miền nam gọi là ca na, người Khmer gọi là kana, người Mã Lai gọi là hoàng yến. Để vinh danh ngôn ngữ Á-Âu, Canarium còn có thể được gọi là cana.

Thơ

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
“Ta về rồi, trên núi nhớ ai?
Đắp cho mai rụng, mai già ”

phòng bếp

1. Món ăn từ trám trắng

– Chế biến các loại bánh mứt, có vị đặc biệt: trám trắng nấu đường làm mứt, vị như mứt chà là của Iraq.

– Ô mai trám (hỗn hợp bột gừng, cam thảo): phần nhân trắng còn ngâm muối, sau đó đem phơi khô thành quả trám.

– Làm nhân cá rô (hoặc các loại cá khác): Bỏ hạt, băm nhỏ, xếp từng lớp nhân đã tách ra khỏi cá vào nồi đất, thêm xì dầu, nấu trên lửa nhỏ cho đến khi chín. Phần nhân trắng đậm sẽ khử mùi tanh của dầu cá.

– Nhân trắng chan nước thịt: trám ngon nhất khi được băm nhuyễn hết hạt, phần nhân nằm dọc theo thân trám sẽ chìm vào thịt, sau đó được nhồi kỹ cùng với thịt ba chỉ heo … có vị chua thanh hòa với nửa phần thịt không có mỡ. Chất béo làm cho miếng cơm ngon miệng và đậm đà hơn một cách đơn giản. Thịt đã không còn ngấy và nhiều dầu mỡ, nhân bánh hơi dai, chua chua, lạnh và tóp mỡ, miếng thịt ba chỉ béo ngậy được tiết ra.

– Nhân trắng ngâm nước mắm cua. Sau khi ngâm nước nóng, bổ đôi quả trám, tách đôi, bỏ hạt rồi ngâm vào nước có pha tro, rơm rạ. Qua một đêm vớt ra, rửa sạch, đợi khô, phơi nắng nửa ngày, đến khi bớt màu thì chấm vào nước mắm cua đặc để ăn dần. Bạn có thể bảo quản trong vài tháng và ăn dần.

– Ướp muối: luộc chín, đổ nước chua, chia đôi, bỏ hạt, pha nước mắm ngon với ít đường, để khoảng 5 ngày (không dùng muối).

2. Món ăn từ trám đen

– Nhân đen nướng. Đun sôi nước 70 độ C, cho trám vào, luộc chín, đậy vung 20 phút, vớt ra, để ráo, cắt dọc quả, bỏ hạt. Khi ăn với muối vừng, nước mắm cơm hoặc nước luộc thịt sẽ rất đậm đà. Loại quả này nếu ngâm nước nóng càng lâu thì càng chắc; Nếu đun lâu sẽ cứng như miếng cao su. Nếu nhân bánh được nấu chín kỹ, bột của nó không cứng và không bị nát. Người ta còn dùng những miếng thứ đen trộn với gạo nếp nấu chín, gọi là “xôi nếp nương”.

– Xôi đen nhồi thịt hoặc cá: ống nhồi thịt ba chỉ hoặc cá sông sẽ có mùi vị rất đặc biệt.

– Trám đen ngâm tương: mua về rửa sạch, để ráo, cho vào thố tráng men có nắp hoặc cho vào xoong dày có nắp. Cho một thìa muối đun sôi rồi cho nước sôi nóng vào rồi để nguội đến 85 độ rồi nhồi nhân, đậy nắp lại; Đừng quên cho muối đậm hơn một chút, vì để muối đậm thì ngấm, rút ​​thì rút ra, mới phát huy hết độ ngon, ngọt của nhân cho người thưởng thức. , một vài giờ nữa nó sẽ được ăn. Nếu muốn làm trám ngâm xì dầu, bạn hãy bóc nhẹ miếng trám ngâm muối, sau đó đem phơi nắng vài phút cho trám nhăn lại (loại vừa phải)… rồi ngâm với xì dầu.

– Gạo nếp làm nhân. Một bát xôi vài cân xôi thì cần 1/3 nhân bánh. Vì vậy, cần có nhiều giỏ đổ đầy để có được 1 kg ngũ cốc. Để chuẩn bị một nơi có món xôi gấc, bạn phải vo gạo nếp, vo gạo từ đêm hôm trước, sáng hôm sau rửa sạch trám và đổ xôi, thái nhỏ trám và lấy phần nhân. Sau khi đã đầy đủ, trộn gạo với một ít muối và cho vào nồi đun nhỏ lửa. Khoảng nửa tiếng sau, xôi có mùi thơm là được. Xôi được bày ra đĩa, nhìn bạn sẽ nghĩ chỉ có xôi vì nhân bánh cũng có màu trắng tinh. Tuy nhiên khi ăn chúng ta có cảm giác bị vón cục, ngấy và lẫn với xôi.

Trong y học

Trám có vị chua, ngọt, béo, tính ấm (có sách viết về lương – hơi hàn) vào 2 kinh phế và vị (có sách ghi vào phế và thận); Có tác dụng sinh tân dịch, giải khát, bổ âm, giải độc cho cá, trừ say, nôn mửa, nhức đầu.

– Mùa đông đêm ngủ thấy khô cổ, ho gây mất ngủ: dùng 20 – 30 quả trám trắng (bỏ hạt) vắt lấy nước uống. Có thể thêm gừng, đường hoặc mật ong để uống.

– Viêm họng cấp hoặc mãn tính, viêm amidan, khô cổ, mất tiếng: dùng muối trám để xông hoặc pha nước uống. Có thể dùng trám tươi để hãm uống.

– Nhiệt miệng, khô miệng, khát nước: Quả đấm bóp lấy nước uống hàng ngày.

Ho khan tiếng: trám tươi bỏ hạt 4 quả, nhân sâm thái lát 10 g giã nát. Cho vào nồi đổ ngập nước, nấu lấy nước uống. Có tác dụng Tư âm, khử hỏa, lợi yết hầu, thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng.

Kiết lỵ ra máu: trám và ô môi lượng bằng nhau đốt thành tro. Mỗi ngày dùng 9 g với nước vo gạo.

– Ngộ độc cua, cá (có sách ghi trúng độc của cá sưng): Trám trắng 30 g sắc lấy nước uống. Phương pháp này cũng được sử dụng cho trẻ em mắc bệnh sởi và điều trị bệnh tan máu.

– Viêm huyết quản: Trám trắng luộc chín ăn phụ nữ sắc nước uống mỗi ngày 200 g. Khóa học 1-2 tháng.

– Da nứt nẻ do lạnh (bàn chân), môi khô nứt nẻ chảy máu: quả trám đốt thành tro, trộn với mỡ lợn hoặc bôi dầu thực vật (thuốc thần).

– Canh thanh long bạch hổ: Bài thuốc của lương y Vương Mạnh Anh đời nhà Thanh, Trung Quốc. Trám tươi (bỏ hạt) Củ cải 15 g bằm nhỏ, 250 g thái nhỏ. Dùng nồi đất. Lấy nước để uống thay trà (có thể ăn một chút gì đó). Phòng và điều trị các bệnh về đường hô hấp trên như cảm lạnh, cảm cúm.

– Chè vằng: 3 quả trám 3 hạt, chè xanh 5 g, mật ong 20 g. Cho bột (không có hạt) vào nồi đất, nấu trong 15 phút, sau đó đổ ra chén đã pha sẵn, trà và mật ong. Chờ 10-15 phút cho nguội. Uống thay trà có tác dụng chữa viêm họng, khô họng, ho khan.

– Làm cao: Trám trắng bỏ hạt, xay nhỏ, đun nhỏ lửa trong 30 phút, cho đường nhôm vào đun trên thành cao. Dùng chữa động kinh, sắc uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê.

(BlogCayCanh.vn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now