Công dụng, cách dùng Bán hạ nam | Flowerfarm.vn

Bán cho nam 1

Minh họa hình ảnh

A.Mô tả của cây

  • Cây bán hạ Việt Nam Typhonium trilobatuum hay còn gọi là củ ấu, cỏ ba lá, cây con chuột, là một loại cỏ không cuống, có củ hình cầu đường kính đến 2 cm. Lá hình tim, hình mác hoặc chia 3 thùy dài 4-15 cm, rộng 3,5-9 cm, hình bông với hoa đực dài 5-9 mm, phần trần cao 17-27 mm. Quả mọng, hình trứng, dài 6 mm.
  • Cây nửa ngồi của Trung Quốc (Pinellia ternata Thunb.) Breicer khác với cây nửa ngồi của Việt Nam ở chỗ các thùy sâu của nó rõ nét hơn. Mặc dù được gọi là cây bán Trung Quốc để phân biệt với cây bán Việt Nam, một số người cho biết cây này đã được thấy mọc ở Lào Cai nhưng chưa được khai thác.
  • Pinellia pedatisecta Schott khác với loại trên ở chỗ lá của nó chia thành chín thùy sâu.

B. Phân phối, thu thập và xử lý

  • Cây bán hạ ở Việt Nam mọc hoang khắp nơi trên đất ẩm ướt ở nước ta từ Nam chí Bắc. Cũng mọc ở Ấn Độ. Trung Quốc, Nhật Bản.
  • Người ta đào củ (ống), rửa sạch đất cát, chọn củ to (gọi là nam tinh), củ nhỏ (gọi là bán ghế). Có thể dùng tươi (thường vừa đánh để đắp vào chỗ rắn độc cắn), thường dùng phơi khô, chế biến. Có nhiều cách chế biến theo quan niệm đông y để giảm độc tính (đắp cam thảo) hoặc tăng tác dụng trị ho (tẩm gừng hoặc tôm). Dưới đây là một số công thức nấu ăn phổ biến:
    1. Cứ 1 kg bán hạ thì cho 0,1 kg cam thảo, 0,1 kg tôm đất và lượng nước vừa đủ, đun đến khi cạn hết nước thì đem phơi hoặc sấy khô. Chưa rõ nguyên nhân nhưng chúng ta biết rằng cam xoàn có tác dụng giải độc, trừ ho. tôm còn có tác dụng chữa ho, tẩm cam thảo và tôm. Củ đậu (bán hạ Việt Nam) rửa sạch, ngâm nước 2-3 ngày, mỗi ngày thay nước 1 lần cho đến khi nước trong hoàn toàn.
    2. Ngâm gừng và phèn chua. Củ mài cả nửa con cũng được rửa sạch và ngâm vào nước như trên cho đến khi nước trong. Cứ 1 kg bán hạ thì thêm 50 g phèn chua và 300 g gừng tươi băm nhuyễn cho nước vào ngập. Đun sôi trong 24 giờ. lấy ra và rửa sạch. Thức ăn đã nấu chín. Cắt thành từng lát mỏng. Làm ẩm lại bằng nước gừng: Cứ 1 kg thêm 150 gr gừng tươi giã nhỏ, thêm ít nước, vắt lấy nước rồi để cả nửa củ ngâm qua đêm. Lấy sao vàng là có thể sử dụng được. Phèn chua có tác dụng khử nhớt.
  • Chúng ta biết rằng gừng cũng chữa ho. Còn về phương pháp xử lý thì vẫn phải nghiên cứu thử nghiệm thêm.
  • Trong bản thảo cương mục của Lý Thời Trân, người ta thấy có ghi giảm phân nửa như sau: Nếu dùng thì phải ngâm vào nước nóng khoảng nửa ngày cho hết nhớt, nếu không. nó sẽ độc và sẽ trở nên không thể chịu được khi bạn uống nó. Trong y học, người ta dùng Hàn the cùng với Sinh khương (gừng tươi) vì có khả năng khống chế độc của nửa xia. Tại Dược điển Trung Quốc nói Bán hạ không hạn dùng với Sinh khương.
  • Theo tài liệu cổ (Lôi Học tức Lôi Công) còn ghi theo Bản thảo cương mục thì người ta bán một ít như sau: Bán hạ 120 g, bạch truật 80 g, dấm chua 200 g; Bạch giới tử đen đánh tan, trộn với dấm, trộn đều, cho nửa mũ vào ngâm qua đêm. Lấy ra, rửa sạch và sử dụng.
  • Một phương pháp khác: Rửa sạch nửa quả, dùng nước nóng để ngâm. Luôn thay nước lọc để loại bỏ dầu, thái mỏng, lấy nước cốt gừng, để khô và sử dụng. Nó có thể được nghiền thành bột trộn với nước gừng, phơi khô và sử dụng.
  • Như vậy, phương pháp được ghi trong sách cổ cũng tương tự như phương pháp chúng ta thường làm, chỉ khác là bổ huyết bạch truật cũng là một bài thuốc chữa ho.
  • Do phương pháp bán ngồi chưa thống nhất nên trong quá trình nghiên cứu cần lưu ý.
  • Bán hè và thu hoạch từ hè sang thu đông.
  • Đào lại rửa sạch đất cát, cạo sạch lớp vỏ mỏng bên ngoài, ngâm nước phèn chua cho sạch nhớt, thấm khô. Chỉ khi chuẩn bị sử dụng thì mới tuân thủ các phương pháp trên.

C. Thành phần hóa học

  • Người bán và các pháp sư Việt Nam chưa tìm thấy tài liệu nào nghiên cứu.
  • Ở Trung Quốc, theo Li Cheng Gu (Trung dược học), ít tinh dầu 0,003-0,013%, một ancaloit, một chất cồn, một chất cay, phytosterol. Ngoài ra, còn có dầu béo, tinh bột và chất nhầy.
    Theo Đại học Sơn Đông hệ thống hóa học (1934, số 3: 463 477), có một chất cay dễ tan trong ete etylic, dung dịch trong ete có phản ứng ancaloit và nhiệt có tác dụng khử cay. .

D. Tác dụng dược lý

  • Tác dụng chữa hoTheo Tạp chí Y học Trung Quốc (1954, 5: 325-330), sau khi sử dụng 1 ml dung dịch iốt 1% gây ho ở mèo, sau đó sử dụng thuốc sắc sẽ giảm 20% (1 ml tương ứng với 0 , 2 g một nửa đơn thuốc.), Sau đó thấy rằng với liều 0,6 g, hiệu quả trong điều trị ho là đáng kể. Liều này cho kết quả tương đương với liều codein phosphat 1g / 1kg.:
    Theo Linh Mộc Đạt (Nhật Bản 1931), tác dụng của quả bán hạ là do rượu bay hơi và ancaloit có tác dụng ức chế thần kinh trung ương và hệ thần kinh.
  • Hiệu ứng chống nôn: Kinh Lôi Ban (1935) đã thí nghiệm với 6 con chó nặng từ 11,5 – 28 kg. Mỗi con tiêm 0,01 g apomokfin vào da để gây nôn. Mỗi ngày tiêm một mũi, tổng cộng là 4 mũi tiêm. Lần thứ hai tiêm cùng lúc 5 ml dung dịch nước (1 ml tương ứng với 1 g bán hạ): lần thứ ba tiêm 5 ml dung dịch khô, 5 phút sau tiêm apomokfin; Lần thứ tư, lần đầu tiên tiêm 5 ml dung dịch nửa dưới và 15 phút sau tiêm apomokfin. Kết quả đầu tiên là trung bình 13 lần nôn mửa, tiếp tục trong 31 phút 15 giây. Lần thứ hai nôn 2 lần, liên tục 15 phút 28 giây. Lần thứ 3 nôn liên tục 3 – 6 lần trong 15 phút 40 giây. Lần 4 nôn 2 lần liên tục trong 13 phút 11 giây. Do đó, tác giả kết luận rằng đối kháng có khả năng làm tăng khả năng ức chế nôn do apomorphin gây ra. Theo Linh Mộc Đạt (1931), tác dụng chống nôn là do chất phytosterol của quả táo gai, nhưng nếu uống sẽ gây nôn. Nhiệt lượng có ảnh hưởng đến sự mất chất gây nôn ở nửa thân dưới như đã nêu trong sách cổ không?
  • Độc tính: Theo dược lý học và dược phẩm sinh học nhắm mục tiêu (Nhật Bản 1933), chiết xuất bán cồn làm cho động vật co lại và chết. Tác dụng này tương tự như tác dụng hưng phấn của mạt bán thần kinh.

E. Sử dụng và liều lượng

  • Bán hạ cũng là một vị thuốc mà theo kinh nghiệm dân gian được dùng để chữa chứng nôn mửa cho phụ nữ có thai hoặc chữa nôn mửa trong trường hợp viêm dạ dày mãn tính.
    Nó cũng là một phương thuốc chữa ho (làm long đờm), nhức đầu, đau dạ dày mãn tính. Mỗi ngày dùng 1,5 đến 4 g; Có thể sử dụng liều từ 4 đến 12 g một nửa công thức đã chế biến hoặc hơn (xem phần công thức bên dưới). Dùng ngoài tùy theo liều lượng, dùng tươi giã nát đắp vào chỗ đau.
  • Trong sách cổ ghi lại tính chất và tác dụng của bán hạ như sau: vị cay, tính nhẹ, hơi độc; có tác dụng hóa đàm thấp (làm khô và ướt), hóa đàm, tiêu viêm (giảm hô hấp) và trừ nôn mửa. Dùng trong các trường hợp nôn mửa, ít đờm, hen suyễn, đau nhức, chóng mặt, mất ngủ; Dùng ngoài có tác dụng lợi tiểu. Phụ nữ có thai nên cẩn thận. Vị trí nửa dưới ngược với ô thứ nhất là ô Thảo.

Bí được bán với giá rẻ cho mọi người sử dụng

  • Công thức được bán trong Dược điển Trung Quốc 1953: bột bán hạ chế 80 g, bột gừng sống 50 g, nước đun sôi 3000 ml, sắc đến khi cạn còn 1000 ml; Lọc qua bông và thêm nước cất cho đủ 1000 ml Theo Dược điển Trung Quốc 100-300 ml mỗi lần dùng trung bình 200-600 ml tương ứng với 8-24 g hoặc 16-18 g bán. Ho và nôn khi mang thai.
  • Bán hạ thang cô hồn (công thức của Trương Trọng Cảnh): Bán hạ 8 g, phục linh 6 g, sinh khương 3 g, nước 300 ml; màu còn 100ml. Uống dần trong ngày, chữa phụ nữ có thai, nôn mửa.
  • Một ứng dụng khác dùng chữa hen suyễn, mặt nặng, không duỗi được, muốn nôn mửa, nôn nao ở bụng dưới, cũng dùng chữa nôn mửa: Bán hạ chế 40g, 20g sắc trong 600ml nước, sắc còn 200ml chia làm nhiều lần uống trong ngày. Liều ở đây cao hơn thuốc nửa ngồi, nên uống từ từ vừa nghe, nếu thấy dễ chịu thì uống tiếp. Trẻ em ngất xỉu bất tỉnh: Sinh địa 4 g, tôm đất 2 g, cành lá giã nhỏ đắp vào mũi.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now