Công dụng, cách dùng của Rau dớn | Flowerfarm.vn

1. Mô tả

Cây có thân rễ ngắn, mọc leo, dài, cao 0,5-1. lá mọc so le, có hai lông chim, hình ngọn giáo, dài 35-45 cm, rộng 20-25 cm, gồm nhiều lá, gốc tròn, đỉnh nhọn, mọc rất sát nhau, mép khía răng cưa, mặt lá có lông; lá đỗ quyên non bị xoắn; cuống lá 25-35 cm, hơi 4 cạnh, ở gốc có vảy, suốt chiều dài có lông. Lá bào tử nhỏ, tròn, nằm đều đặn ở các gân phụ ở mặt sau của lá; túi chắc chắn, không bị rơi; bào tử hình bầu dục, màu vàng tươi, mào hẹp. Mùa sinh sản, tháng 5-8.

2. Phân bố, sinh thái

Ở Việt Nam, nhàu phân bố khắp các tỉnh miền núi như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Sơn La, Tuyên Quang, Hòa Bình, Thanh Hóa thuộc các tỉnh Tây Nguyên. và vùng cao của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Khánh Hòa. Cây đặc biệt ưa ẩm, chịu bóng hoặc hơi ưa sáng, thường mọc thành từng đám, có khi thành đám trong rừng mới phát, ven rừng ẩm hoặc ven suối ngoài rừng.

Độ cao phân bố 2000 m (khu vực giao cắt giữa Hoàng Liên Sơn và Ngũ Chỉ Sơn ở Sa Pa). Cây phát triển tốt ở vùng khí hậu lạnh ẩm vùng núi; Vào mùa đông, nó có thể chịu được nhiệt độ thấp kéo dài. Rau răm mọc trên lá non rải rác quanh năm, nhưng ở vùng nhiệt đới núi cao như Sa Pa, Sìn Hồ (Lai Châu) mùa ra lá non tập trung vào tháng 3-5. Mỗi chùm nho chỉ mọc khoảng 1-3 lá mới / năm, nếu thu lá mới trong thời kỳ cây sinh trưởng mạnh thì cây có thể mọc thêm lá mới để thay thế. Rau răm sinh sản bằng túi bào tử, được phát tán nhờ gió và nảy mầm trong môi trường nước. Xà lách là một loại rau rừng được người dân tộc miền núi biết đến.

Thời gian gần đây, người dân còn thu hái ngò gai để bán ở các khu đô thị hoặc các cánh đồng.

3. Các bộ phận đã qua sử dụng

Toàn bộ cây

4. Thành phần hóa học:

Xà lách chứa 86% nước, 4% protid, 8% hydrat cacbon, chủ yếu là xenluloza. (The Wealth of India voL III. 1952.88), các hợp chất của axit phenolic, axit proto-axetic và axit phenolic và axit syringic (CA.11,1993,113341f).

5. Công dụng

Lá nhàu non thường được luộc, xào, luộc hoặc ăn sống, về mặt y học, lá nhàu được dùng làm các bộ phận sau:

  • Lá non (50 g) rửa sạch, giã nát, đắp vào vết thương có tác dụng cầm máu, làm lành vết thương.
  • Lá bánh tẻ (100 g), thịt quả bí đỏ (100 g); Hai thứ dùng tươi, giã nát đắp chữa bỏng.
  • Thân rễ (20 g) cắt bỏ rễ, rửa sạch, xay mịn, sắc với 200 ml nước còn 50 ml, uống làm 2 lần trong ngày, chữa sốt rét. Dùng 7-10 ngày cho một đợt điều trị. Ở Đài Loan, rau mùi được dùng làm thuốc hạ sốt. Ở Philippines, nước sắc từ thân rễ và lá non được dùng để chữa ho và ho ra máu. Ở Malaysia, phụ nữ mang thai có phong tục uống nước sắc của nước rau ngót.

Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Call Now