1. Cơ sở xác định thời vụ trồng khoai lang
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu gió mùa, khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao, lượng mưa dồi dào, lượng mưa phân bố tương đối đồng đều nên rất thuận lợi cho cây khoai lang sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, có thể trồng quanh năm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến đặc điểm riêng của từng vùng khí hậu khác nhau để điều chỉnh mùa vụ phù hợp. Vì vậy, để tổ chức thời vụ gieo trồng hợp lý cũng cần dựa vào các yếu tố sau:
* Điều kiện ngoại cảnh cụ thể (chủ yếu là nhiệt độ và lượng mưa) có liên quan đến các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây khoai lang.
* Đặc điểm của giống: Giống trung và dài ngày thường được gieo trồng trong vụ đông xuân và vụ xuân. Các giống ngắn ngày thường trồng vào vụ đông và hè thu. Căn cứ vào khả năng chịu lạnh hoặc chịu nóng của giống mà phân bố đúng vụ.
* Điều kiện thổ nhưỡng và chế độ luân canh cây trồng: Đất ngoài đồng tránh được thời kỳ ngập úng, chế độ luân canh 2, 3 vụ mà chọn thời vụ gieo trồng thích hợp. Luân canh 2 vụ, trồng vụ đông xuân; Luân canh 3 vụ, trồng khoai lang vụ đông, …
* Mức độ đầu tư chiều sâu và yêu cầu kinh tế cụ thể của từng địa phương.
Nhìn chung, có bốn mùa trồng trọt chính ở Việt Nam.
2. Thời vụ trồng khoai lang ở Việt Nam
2.1. Vụ khoai lang đông xuân
Diện tích trồng khoai lang đông xuân ở nước ta hiện nay chiếm một phần tương đối lớn trong tổng diện tích trồng khoai lang của cả nước. Nhìn chung, vụ đông xuân có thể trồng ở tất cả các vùng, trừ các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Diện tích gieo trồng khoai lang đông xuân chủ yếu tập trung trên đất cấy 1 lúa 1 màu.
Thời vụ trồng tháng 11 – 12, thu hoạch tháng 4 – 5.
Khoai lang đông xuân có những ưu nhược điểm chính sau:
– Nằm trong cơ cấu luân canh 2 vụ: Lúa mùa – Khoai lang đông xuân nên thời vụ không khẩn trương, đảm bảo làm đất đầy đủ, nhất là với điều kiện đồng ruộng.
– Thời gian sinh trưởng dài (5 – 6 tháng) nên có thể sử dụng các giống dài ngày có tiềm năng năng suất cao.
– Nhìn chung các giai đoạn sinh trưởng, phát triển (đặc biệt là sinh trưởng của thân và phát triển của củ) trong điều kiện ngoại cảnh tương đối thuận lợi.
– Giai đoạn củ lớn trong điều kiện nhiệt độ thích hợp chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá lớn, có mưa xuân, thời gian sinh trưởng củ kéo dài nên có ích cho quá trình trương nở củ; Trong thời kỳ thu hoạch, nhiệt độ cao, không có mưa nên năng suất cao.
– Từ tháng 12 trở đi nhiệt độ bắt đầu xuống thấp, thường có rét đậm, khô hạn, có gió mùa đông bắc nên nếu trồng muộn cây khó bén rễ, tỷ lệ chết dây cao.
– Thời kỳ đầu sinh trưởng vào mùa khô nên các bộ phận trên mặt đất sinh trưởng chậm, khả năng hình thành củ kém.
– Giai đoạn cuối, khi nhiệt độ và lượng mưa tăng dần, cuống lá phát triển mạnh không có xu hướng giảm (cá biệt có năm cuống lá vẫn phát triển ổn định cho đến khi thu hoạch) không có ích cho cây. vận chuyển, tích lũy chất khô trong củ.
Để khắc phục các nhược điểm trên áp dụng các biện pháp kỹ thuật sau:
– Tranh thủ trồng vào đầu tháng 11 để tận dụng điều kiện nhiệt độ cao và độ ẩm của đất.
– Đối với vụ này, để tránh ảnh hưởng của điều kiện nhiệt độ thấp sau khi đặt dây, chú ý lấp đất sâu khoảng 5-7 cm và ấn chặt dây.
– Cần điều chỉnh tưới và bón phân hợp lý để cây phát triển cân đối giữa hai bộ phận trên và dưới mặt đất.
2.2. Văn hóa khoai lang đông
Khoai lang vụ đông được trồng chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trước đây và Bắc Bộ trước đây 4. Với sự xuất hiện của các giống lúa ngắn ngày và hình thành vụ lúa xuân đã làm thay đổi cơ cấu thời vụ. Diện tích gieo cấy hai vụ lúa trước đây (lúa thường và lúa mùa) chuyển dần sang cơ cấu ba vụ trong năm: lúa xuân – lúa mùa sớm – vụ đông. Do đó khoai lang đông hình thành và phát triển chủ yếu trên diện tích của vùng hai vụ lúa hoặc một vụ lúa – một màu, khoai lang đông trồng vào tháng 9, thu hoạch vào cuối tháng giêng, sớm. vào tháng Hai năm sau. Trồng khoai lang đông lạnh có những thuận lợi và khó khăn chính sau:
– Cây khoai lang đông nằm trong cơ cấu luân canh 3 vụ: lúa xuân – lúa mùa sớm – khoai lang đông nên có tác dụng như sau:
+ Tăng hệ số sử dụng đất.
+ Tăng tổng sản lượng thu hoạch trên một đơn vị diện tích canh tác để nâng cao thu nhập cho nông dân.
+ Cải tạo và xới đất.
– Thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 4 tháng) có thể chọn giống ngắn ngày hoặc trung bình cho năng suất cao để trồng.
– Tận dụng thời gian thất nghiệp sau vụ thu hoạch sớm, tạo công ăn việc làm cho nông dân.
– Thời vụ gấp nên ảnh hưởng đến kỹ thuật làm đất. Hơn nữa, trong thời gian trồng (tháng 9) cuối vụ có mưa nên trồng khoai lang vào đất ẩm.
– Thời điểm sinh trưởng của lá và phát triển củ vào những tháng mùa đông lạnh hơn, thời tiết khô hanh, nhiệt độ và độ ẩm đất không thích hợp làm cho lá sinh trưởng kém, chỉ số diện tích lá thấp, sinh trưởng yếu, thời gian sinh trưởng hữu hiệu của củ ngắn, nên ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ sinh trưởng của củ ở giai đoạn muộn.
Để khắc phục các nhược điểm trên cần thực hiện các biện pháp kỹ thuật sau:
Tranh thủ trồng sớm tận dụng khi nhiệt độ còn cao giúp lá phát triển sớm.
– Thực hiện các biện pháp kỹ thuật trồng khoai lang trên đất ẩm ướt. Nội dung cơ bản của biện pháp này được tóm tắt như sau:
+ Ngay sau khi kết thúc thu hoạch lúa sớm, khi ruộng còn ướt (thậm chí có nước) phải cày bừa luống ngay.
+ Lên luống xong cần phủ một ít đất bột khô lên trên mặt luống (để giảm độ ẩm) rồi tiến hành trồng tiếp.
+ Sau khi trồng khoảng 20 – 25 ngày khi thời tiết bắt đầu trở lại mùa khô, đất trên luống khô dần; sau đó tiếp tục cày lại vào giữa luống, làm đất nhỏ và vun xới cho đầy luống khoai.
– Cần bón thúc sớm (nhất là đạm) để thúc lá phát triển thuận lợi ngay từ đầu, đảm bảo yêu cầu phát triển diện tích lá. Nếu lá kém phát triển có thể bón bổ sung phân đạm vào giữa thời kỳ sinh trưởng của thân.
– Cung cấp đủ nước cho thời kỳ cây sinh trưởng, phát triển củ. Thực tiễn sản xuất cho thấy, vào vụ đông thời tiết rất hanh khô, việc tưới nước cho khoai lang có tác dụng tăng năng suất đáng kể.
2.3. Vụ khoai lang xuân
Khoai lang vụ xuân có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau ở khắp các tỉnh nam bắc, chủ yếu trên đất 2 vụ – 1 lúa.
Thời vụ trồng tháng 2 – 3, thu hoạch tháng 6 – 7
– Thời vụ không khẩn trương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào đắp.
– Thời gian sinh trưởng tương đối dài (4-5 tháng) nên có thể sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng trung bình, dài ngày, có tiềm năng năng suất cao.
– Nhìn chung, điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây khoai lang từ khi trồng đến khi lấy củ lớn. Thân sinh trưởng mạnh, thời gian sinh trưởng hiệu quả của củ khá lâu.
– Thời kỳ cuối sinh trưởng thân lá tiếp tục phát triển không có dấu hiệu bị co lại do nhiệt độ và lượng mưa tăng làm ảnh hưởng đến nồng độ chất khô trong củ.
-Những năm trời mưa sớm (cuối tháng 5, đầu tháng 6 mưa nhiều) ruộng khoai bị ngập úng, củ dễ thối, nếu thoát nước không nhanh thường phải thu hoạch non. khi củ chưa già làm giảm năng suất, sản lượng và chất lượng củ.
Trong sản xuất hiện nay, bà con có xu hướng thu hẹp diện tích trồng khoai lang xuân; thay vào đó họ trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao như ngô, đậu tương, lạc, khoai tây và một số loại rau màu, …
2.4. Khoai lang vụ hè thu
Nó mọc chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Ở các tỉnh phía Bắc chỉ trồng được ở những nơi có độ thoát nước cao như miền núi trung du. Vùng trũng hè thu đang vào mùa mưa nên khoai lang thường không phát triển được.
Vụ khoai lang hè thu gieo tháng 5 – 6, thu hoạch tháng 8 – 9.
– Nhìn chung điều kiện ngoại cảnh tương đối thuận lợi, phù hợp với sinh trưởng và phát triển của cây khoai lang nên có thể cho năng suất khá.
Nguồn: Giáo trình Khoai lang – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên